TOP 10 mẫu Thể hiện vai ông Sáu kể lại truyện Chiếc lược ngà hay nhất, được viết bởi các bạn học sinh giỏi trên toàn quốc, giúp các em học sinh lớp 9 dễ dàng nhập vai nhân vật Anh thanh niên kể chuyện một cách cô đọng và súc tích.

Anh Thanh niên

Thể hiện vai ông Sáu kể lại Chiếc lược ngà, giúp các em hiểu rõ nội dung chính của tác phẩm, rèn luyện trí tưởng tượng và kỹ năng kể chuyện theo góc nhìn của nhân vật một cách tốt nhất. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Mytour:

Dàn ý thể hiện vai ông Sáu kể lại truyện Chiếc lược ngà

Dàn ý rõ ràng

1. Khởi đầu

  • Giới thiệu nhân vật chính: Ông Sáu, người sẽ đóng vai kể lại câu chuyện.

2. Nội dung chính

- Tường thuật về cuộc gặp gỡ giữa ông Sáu và bé Thu

  • Thời điểm cuộc gặp gỡ diễn ra là khi nào?
  • Tâm trạng, cảm xúc của các nhân vật như thế nào?

3. Phần kết

  • Cảm nhận và suy nghĩ sau sự kiện.

Dàn ý chi tiết thứ nhất

I. Giới thiệu: Tác giả và tác phẩm được đề cập

  • Nguyễn Quang Sáng: Sinh ở An Giang.
  • Tác phẩm miêu tả cuộc sống và con người Nam Bộ.
  • Lối viết giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc, mang nét đặc trưng của văn học Nam Bộ.
  • Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, và kịch bản phim.
  • Chiếc lược ngà, Đất lửa, Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng là những tác phẩm nổi bật của ông.
  • Chiếc lược ngà được viết năm 1966, khi tác giả tham gia chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
  • Chiếc lược ngà được in trong tập truyện ngắn cùng tên.

II. Thân bài:

  • Tôi rời xa nhà để tham gia kháng chiến, lúc đó con tôi - bé Thu - chưa đầy một tuổi.
  • Khi bé Thu lên tám tuổi, tôi mới có cơ hội trở về thăm nhà và con.
  • Bé Thu không nhận ra tôi vì vết sẹo bên má phải làm tôi khác lạ với hình ảnh người cha mà nó đã biết qua ảnh.
  • Con không thừa nhận tôi là cha, không gọi tôi là 'ba'.
  • Sau khi bé Thu nhận ra tôi, tình cảm cha con trong con trỗi dậy, nhưng cũng là lúc tôi phải rời đi trở lại đơn vị.
  • Ở khu căn cứ trong rừng, tôi hối hận vì đã đánh con, tôi dành tình cảm của mình để làm một chiếc lược từ ngà voi để tặng cho con.
  • Nhưng trong một trận đánh, tôi đã hy sinh.
  • Trước khi ra đi, tôi đã kịp trao chiếc lược cho ông Ba, người bạn thân của tôi.

* Chú ý các chi tiết

  • Tâm trạng của bé Thu trước khi nhận ra tôi là cha:
  • Hốt hoảng, mặt tái đi, vội vàng chạy bỏ.
  • Chỉ biết lặng lẽ, không chịu gọi tôi là 'ba'.
  • Không nhận trứng cá mà tôi gắp cho nó.
  • Về nhà bà nội, cố ý đập dây xuồng rồi kêu to. Sợ hãi, lạnh lùng, xa cách và ngoan cố.

III. Kết bài: Cảm nhận về câu chuyện

Dàn ý chi tiết số 2

1. Mở bài

- Giới thiệu về hoàn cảnh của 'tôi':

  • Rời xa nhà để tham gia kháng chiến
  • Nhiều năm không gặp con gái
  • Chỉ được nhìn con qua những bức ảnh

2. Thân bài

- Trải lòng về những ngày nghỉ phép:

  • Chia sẻ niềm vui khi gặp lại con nhưng con không quen, sợ hãi và từ chối gọi ba
  • Bé Thu lạnh nhạt, không chịu chăm sóc và thậm chí hất văng trứng ra khỏi bát khi được ba gắp.
  • Giận dữ vì lỡ tay đánh con → Hối hận đau đớn
  • Ngày lên đường, bé Thu khóc lóc và gọi cha

- Trải lòng về những ngày trở lại chiến trường:

  • Tham gia các trận đánh
  • Tìm thấy mảnh ngà voi và làm chiếc lược để tặng con
  • Trước khi hy sinh, gửi chiếc lược cho đồng đội để đưa đến bé Thu

3. Kết bài

  • Đoạn tưởng tượng gặp lại bé Thu

Ông Sáu kể lại truyện Chiếc lược ngà - Sơ lược

Ông Sáu kể lại Chiếc lược ngà - Mẫu 1

Tôi trở về từ chiến trường với hi vọng gặp lại vợ, con, và gia đình.

Khi xuồng sắp cập bến, tôi thấy con gái đang chơi với bạn bên bờ sông, lòng cha bỗng trỗi dậy. Tôi nhảy xuống bờ, tay dang ra chờ con chạy đến ôm, nhưng thất bại vì con bé chỉ coi tôi như người xa lạ và vụt chạy về nhà.

Khi về nhà, thấy con bé đã có mặt. Vợ đang nấu cơm trưa, con gọi tôi vào ăn cơm nhưng con bé không vui và nói trổng với tôi: 'Đi ăn cơm đi'.

Tôi buồn lắm nhưng không muốn con thấy ba mình, một người lính bật khóc, nên tôi chỉ cười với con.

Ông Sáu kể lại Chiếc lược ngà - Mẫu 2

Hạnh phúc lớn nhất đời tôi là có được bé Thu - con gái đầu lòng. Dù đã xa con gần tám năm, nhưng tôi luôn nghĩ đến ngày gia đình được đoàn tụ. Khi được về nhà ba ngày, lòng tôi vui sướng biết bao khi thấy con chạy ôm tôi và gọi một tiếng ba. Đó là hạnh phúc thật sự.

Tuy nhiên, mọi điều đều không như giấc mơ bé nhỏ đó, đứa con gái mà tôi luôn mong nhớ lại chỉ coi tôi như một người xa lạ, nhìn người cha này như một người không quen biết vì vết sẹo trên má tôi khiến tôi khác xa so với hình ảnh trong ảnh chụp cùng nó.

Ừ thì, có lẽ hành động của nó là đúng vì khi tôi ra chiến trường khi nó chưa đầy một tuổi, nó quá nhỏ để nhớ hình ảnh của người cha này và cũng chưa đủ lớn để hiểu sự khốc liệt của chiến tranh. Vì thế, với nó, dù tôi làm gì cũng vô nghĩa, mọi thứ đều như thường.

Ông Sáu kể lại truyện Chiếc lược ngà đầy đủ

Thay lời ông Sáu kể lại Chiếc lược ngà - Mẫu 1

Vì đấu tranh cho dân tộc, tôi đã hy sinh hạnh phúc gia đình, xa vợ, xa con, và chịu thương tích của chiến tranh. Suốt tám năm, xa nhà đi chiến đấu, ít lần về thăm nhà, tôi đau lòng vì đứa con gái duy nhất không nhận tôi là cha. Trước mặt, hình ảnh hàng dừa nghiêng xuống kênh nước trước nhà hiện lên. Bất ngờ, tôi nhận ra một bé gái tóc ngắn đang chơi dưới gốc cây. Linh cảm của một người cha khiến tôi nhận ra đó chính là bé Thu – con gái bé bỏng mà tôi mong mỏi gặp bấy lâu nay. Khi đó, lòng cha bỗng trỗi dậy trong tôi, không thể chờ xuồng đến, tôi nhảy xuống bờ, chạy lại gần con, gọi bằng giọng run run: 'Ba đây con ơi!' Nhưng đáp lại tình cảm của tôi là nỗi sợ hãi thảng thốt của con, chạy về nhà với má hối hận. Tôi cứ đứng đấy, chẳng dám quay lại. Anh Ba bên cạnh an ủi:

– Đừng lo, sớm muộn gì nó cũng sẽ nhận ra cậu. Cha nó mà, ai mà nó lại không chịu nhận.

Tôi cười nhưng nước mắt lăn dài. Chỉ được ở nhà ba ngày ngắn ngủi, suốt ba ngày đó, tôi cố gắng để con gái gọi tôi là 'ba' một lần. Nhưng không, nó cứ cứng đầu, gan dạ, bướng bỉnh. Có lần mẹ nó đang nấu cơm, tôi đi mua đồ ăn, nhờ nó trông cơm. Cơm sôi sùng sục, nó đảo đôi đũa mấy lượt. Nhưng khi phải chắt nước, nó không thể nâng nổi, mới kêu cầu tôi:

– Cơm sôi rồi, giúp tôi vớt nước nhanh đi!

Lại là một câu nói trớ trêu, tôi im lặng không đáp, tiếp tục uống trà với anh Ba. Tôi cố ý không nghe để hy vọng nghe con gái gọi tôi là 'ba' một cách ấm áp, yêu thương. Nhưng không, con bé vẫn không chịu gọi tôi là ba. Nó làm đủ trò,

Và điều tôi hối tiếc nhất, trong những ngày bên con, là lúc tôi đánh con vì nó không chịu nhận miếng trứng cá mà tôi gắp cho. Sau khi bị đánh, Thu chạy đến bà ngoại. Tôi không biết bà kể chuyện gì cho nó nghe, nhưng khi nó trở về, nó có vẻ khác đi. Nó không còn ngoan ngoãn như thường, mà buồn rầu, sắp xếp lại gương mặt trong sáng, trong ánh mắt đầy tò mò, nghiêm túc.

Khi chia tay, mang ba lô trên vai và đã bắt tay với mọi người, tôi nhìn về phía con bé. Nó vẫn đứng im trong góc nhà, lòng tôi rất muốn ôm con, hôn con nhưng lại lo sợ rằng con sẽ bỏ chạy nên chỉ dám nhìn con từ xa, lòng tôi đầy buồn bã. Rồi tôi nói nhẹ:

- Thôi ba đi đây con nghe

Bất ngờ, sau khi tôi nói xong, con bé bỗng cất tiếng kêu:

- B...a..a...ba

Thu gọi ba, tôi sững sờ, giây phút ấy dường như cả địa cầu cũng ngừng quay, trái tim tôi thổn thức, niềm hạnh phúc vỡ òa, tan chảy trong tôi, tôi đã khóc, giọt nước mắt vui sướng và hạnh phúc vô bờ bến của một người cha lần đầu tiên được nghe đứa con duy nhất của mình gọi. Vậy là con tôi đã nhận ra tôi, tôi hôn tóc con và hứa sẽ tặng con chiếc lược khi tôi về.

Sau khi trở về căn cứ, lời yêu cầu của con Thu “Ba về! Mua cho con một cây lược nghe ba!” đã thúc đẩy tôi suy nghĩ về việc làm một chiếc lược ngà cho con. Khi tìm được khúc ngà, tôi cảm thấy vui sướng như một đứa trẻ nhận quà. Tôi dồn hết tâm trí và sức lực vào việc làm cây lược. Sau khi hoàn thành, tôi khắc lên cây lược dòng chữ “Yêu thương Thu của ba”. Điều này làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm thương nhớ mong đợi của người cha với đứa con xa cách. Cây lược trở thành vật linh thiêng, an ủi và nuôi dưỡng trong tôi tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Mỗi đêm, tôi ngắm nhìn chiếc lược, mài nó lên tóc cho thêm bóng và chờ đến ngày đưa chiếc lược về cho con.

Chiến tranh thật là bi kịch! Hai từ đó vang lên thật đau lòng, vì chính những từ đó mà nhiều người phải chịu đựng. Chiến tranh tàn khốc, gây ra các cuộc chia ly, vợ xa chồng, cha xa con, con xa nhà. Chiến tranh không thể tha thứ khi đã cướp đi sinh mạng, xương máu của biết bao người Việt Nam, và trong chiến tranh đó, những tình cảm thiêng liêng nhất của cuộc đời không thể nào bộc lộ hết được, tình yêu vợ chồng, tình đồng đội, tình yêu quê hương và đặc biệt là tình cha con. Mong sao chúng tôi cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ để đất nước sớm hoà bình, và chúng tôi sớm được đoàn tụ với người thân sau bao năm xa cách.

Thay lời ông Sáu kể lại Chiếc lược ngà - Mẫu 2

Tình cảm của anh Sáu dành cho bé Thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc anh tự tay làm chiếc lược nhà cho con gái. “Ba về! Mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái trong giây phút từ biệt cha. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng.

Kiếm cho con cây lược trở thành nhiệm vụ của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình cha con trong lòng. Anh nảy ra một ý tưởng lớn: Làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không chỉ vì rằng trong rừng rú chiến khu, anh không thể mua được cây lược, mà làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Hơn thế nữa, ngà voi là thứ quý hiếm – chiếc lược cho con của anh phải được làm bằng thứ quý giá ấy. Anh không muốn mua, mà muốn tự tay làm ra. Anh sẽ đặt tất cả tình cha con của mình vào đó. Kiếm được ngà voi, mặt anh “hớn hở như một đứa trẻ được quà”.

Vậy khi ta trở thành một đứa trẻ, chính là lúc ta hiện lên với vai trò cao quý của người cha. Anh ngồi mài từng chiếc răng của cây lược, cẩn thận và công phu như một thợ bạc, khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Anh thường xuyên lấy cây lược ra ngắm và mài lên tóc cho nó thêm bóng và mượt.

Lòng yêu thương con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân, chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời - chiếc lược ngà chứa đựng tình phụ tử đơn giản mà kỳ diệu. Nhưng ngày đó không bao giờ quay lại. Anh không kịp đưa chiếc lược ngà đến tay con vì anh đã hy sinh trong trận đánh lớn. Tuy nhiên, chỉ có tình cha con mới không bao giờ mất đi. Anh đưa tay vào túi, móc cây lược đưa cho người bạn đồng đội và nhìn bạn lâu sau. Đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn, ước nguyện của tình cha con! Từ đó, chiếc lược ngà đã biến người đồng đội thành người cha - người cha thứ hai của cô bé Thu.

Trong những ngày đen tối đó, người sống phải ẩn mình, người chết cũng phải chôn cất bí mật. Mộ của anh là ngôi mộ bằng, vì tìm thấy mồ bọn chúng sẽ đào lên, cho nên mộ anh bằng phẳng như mặt rừng. Bác Ba bạn của anh đã khắc vào một gốc cây rừng gần mộ anh làm dấu cho dễ nhớ. Sống như thế và chết như thế làm sao mà chịu đựng. Chúng ta buộc phải cầm súng. Bé Thu không còn là cô bé ngày xưa nữa mà là một cô giao liên thông minh, quả cảm. Thu đi theo con đường mà ba cô đã chọn. Thu đi để trả thù cho quê hương, cho cha mình đã bị bọn giặc giết hại. Tuy anh Sáu đã hi sinh nhưng câu chuyện về hai cha con anh sẽ còn sống mãi.

Hình ảnh chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của chiến tranh. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã diễn đạt rõ nét tâm hồn, tình cảm của anh Sáu và bé Thu. Truyện mang đến cho người đọc tình huống đầy cảm xúc, miêu tả tâm trạng và tình cảm nhân vật một cách nhẹ nhàng và sâu sắc. Giọng kể truyện như là sự sống lại của một truyền thuyết. Truyện đã thành công trong việc tái hiện thời gian bằng cách cho người đọc suy ngẫm về nỗi đau và mất mát do chiến tranh gây ra.

Gấp sách lại, chia tay ông Ba, câu chuyện về “Chiếc lược ngà” với lời nói cuối cùng của ông – giọng trầm ấm và khoan thai – vẫn vang vọng trong lòng bạn đọc như một câu chuyện cổ tích hiện đại. Truyện thành công trong việc tạo tình huống, miêu tả tâm lý nhân vật và giọng kể nhẹ nhàng, truyền cảm. Ông Ba - người kể chuyện - hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng, người đã trải qua những cuộc chiến tranh đầy khốc liệt và gắn bó với quê hương, rất nhân hậu và kiên cường, đã sáng tạo nhiều nhân vật sinh động, đồng thời tái hiện thời gian giữ nước để người đọc suy ngẫm về nỗi đau và mất mát do chiến tranh gây ra.

Tình cảm giữa cha và con trong gia đình ông Sáu vượt qua thử thách của chiến tranh, ngày càng trở nên thiêng liêng và sâu sắc hơn, kết nối chặt chẽ với tình yêu đối với quê hương và đất nước. Qua các thế hệ từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba và Nguyễn Quang Sáng, câu chuyện muốn nhắn gửi rằng trong những nỗ lực chống lại xâm lược của dân tộc, tình cha con và sự gắn bó giữa các thế hệ Việt Nam vẫn mãi mãi không bao giờ phai nhạt, như chiếc lược ngà không bao giờ mất đi. Tình cha con của bé Thu cũng sẽ được gìn giữ mãi mãi!

Thay cho lời kể của ông Sáu về Chiếc lược ngà - Mẫu 3

Tình cảm giữa cha và con – đặc biệt là đối với một đứa con gái nhỏ - có thể là tình cảm thiêng liêng nhất trong cuộc đời của mỗi người, và đối với tôi cũng vậy.

Tôi tham gia kháng chiến chống Pháp khi con gái tôi còn nhỏ, chưa đầy một tuổi. Suốt những năm tháng đó, vợ tôi đã từng đến thăm nhưng vì đường đi nguy hiểm nên không thể mang con bé theo. Tôi chỉ có thể nhìn thấy con qua một bức ảnh nhỏ.

Và trong suốt thời gian kháng chiến, ba chúng tôi không bao giờ gặp nhau. Cho đến khi tôi được về, tôi mới được ôm con. Từ xa, nhìn thấy một cô bé tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đang chơi trước nhà, tôi đã biết đó chính là Thu – con gái của tôi. Tôi không thể chờ đợi nữa, nhảy xuống đất với niềm vui rộn rã và ôm con vào lòng, giải tỏa nỗi nhớ mong của tôi. Nhưng thật đáng tiếc, thay vì hạnh phúc, con bé ban đầu cảm thấy ngạc nhiên và chỉ nhìn tôi lờ mờ. Sau đó, có vẻ như cô bé nhận ra điều gì đó và bắt đầu lo lắng về người đàn ông gọi mình là 'ba' là ai. Rồi cô bé chạy đi và hét lên. Trước thái độ của con, tôi cảm thấy rất đau lòng và chịu nhiều nỗi đau. Tôi chỉ đứng nhìn con, cảm thấy bất lực và thương tâm.

Vì chúng tôi phải ra đi xa, chỉ có ba ngày được ở nhà. Trong suốt ba ngày đó, chúng tôi cố gắng để con gọi tôi một tiếng 'ba'. Nhưng không, con rất cứng đầu, gan lì, bướng bỉnh. Dù có những lúc phải gọi tôi vào bữa ăn hay nhờ tôi lấy nước cho nồi cơm, con vẫn trả lời trợn trợn và không gọi tôi là 'ba' một tiếng. Tôi buồn lòng trước thái độ của con.

Và điều tôi hối tiếc nhất trong những ngày được ở bên con chính là việc tôi lỡ đánh con vì nó không chịu ăn miếng trứng cá mà tôi cho. Sau khi bị đánh, Thu chạy sang bà nội, và tôi không biết bà kể gì cho nó nghe, nhưng khi về nhà, nó có vẻ khác lạ.

Sáng hôm đó, nhiều người đến chia tay chúng tôi. Tôi bận phải tiếp đón khách nên không để ý đến con nhiều, con dường như chỉ đứng nhìn mọi người rồi nhìn tôi. Không biết lúc đó, con nghĩ gì? Nhưng nhìn con, tôi thấy con có vẻ buồn, một vẻ buồn đáng yêu và sâu sắc. Khi phải lên đường, thấy con đứng ở góc nhà, mặc dù rất muốn ôm con để từ biệt, nhưng tôi sợ nó sẽ không chấp nhận như lần trước. Vậy là, tôi chỉ đứng nhìn con, nhìn con với tình cảm lẫn buồn rầu. Nhưng ngược lại, con bất ngờ kêu lên: 'Ba…a…a…ba!', rồi nó chạy đến, ôm chặt tôi. Nó ôm, nó hôn, nó khóc và giữ chặt tôi lại. Sau khi được mọi người giúp đỡ, nó mới buông tôi đi. Trước khi tôi ra đi, con nhắc tôi nhất định mua cho nó một cây lược.

Sau đó, khi chúng tôi trở lại chiến trường miền Đông, không còn tập kết nữa. Một ngày, tôi tìm thấy một khúc ngà voi. Tôi muốn tự tay làm một cây lược đẹp cho con gái nhỏ của mình. Mỗi ngày, tôi tỉ mẩn chế tác từng chiếc răng lược và kỹ lưỡng khắc lên đó những dòng yêu thương dành cho con. Tôi mong rằng, khi chiến tranh kết thúc, tôi sẽ trở về và trao món quà bé nhỏ đó cho con.

Nhưng rồi, một sự cố không may đã xảy ra với tôi. Trong một trận đánh lớn của Mỹ – Ngụy vào ngày cuối năm mươi tám, tôi bị thương nặng. Trước khi rời khỏi cuộc sống này, tôi kịp giao cho anh Ba – người bạn chiến đấu của tôi cây lược ngà, hy vọng rằng anh sẽ trao nó cho con bé thay mặt tôi. Và trong cơn hấp hối, tiếng anh Ba vẫn vọng về trong tai tôi: 'Tôi sẽ mang nó về và trao cho cháu của bạn'.

Thay lời của ông Sáu kể lại câu chuyện về Chiếc lược ngà - Mẫu 4

Tôi là một người chiến sĩ trên chiến trường miền Nam. Nghe theo tiếng gọi cao cả của tổ quốc, tôi bỏ lại mẹ già và đứa con nhỏ để đi nhập ngũ. Trải qua những năm tháng khốc liệt của chiến tranh, cha con tôi khó mà gặp nhau. Cho đến khi con tròn 8 tuổi, tôi mới có dịp trở về thăm quê. Chuyến về này để lại trong tôi những kỷ niệm khó phai.

Khi tôi nhập ngũ, con gái nhỏ của tôi mới chỉ dưới một tuổi. Mỗi khi vợ đến thăm, tôi đều nhắc vợ mang con theo để giảm đi nỗi nhớ nhung, nhưng hoàn cảnh không cho phép. Do đó, mãi sau khi được về thăm quê, tôi mới có dịp gặp con.

Cảm giác nhớ con, yêu con luôn rối ren trong lòng tôi. Tôi thao thức suốt đêm, mong sao thời gian trôi nhanh để sớm được gặp con, ôm con vào lòng. Xuồng vừa cập bến, tôi thấy bóng cô bé 8 tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần bông áo đỏ đang chơi trước nhà chòi. Bằng trực giác và tình cha con mãnh liệt, tôi linh cảm đó chính là Thu - con của tôi. Tôi nhảy lên bờ vội vàng, kêu lớn:

'Thu, con!'

Tôi tưởng rằng con sẽ chạy đến ôm tôi, hôn tôi thắm thiết, nhưng khi nghe tôi gọi con lại giật mình, tròn xoe mắt nhìn. Không kìm được xúc động, tôi từ từ bước tới, vết thương dài trên má tôi lại đỏ lên trong sự hoảng sợ. Con bé khóc thét rồi chạy đi tìm mẹ của nó. Tôi cảm thấy mình như người xa lạ, lòng buồn bã đầy hụt hẫng. Trái tim tôi nhói lên đau đớn. Đứa con gái tôi mong ngóng, tôi đợi chờ lại không chấp nhận người cha này ư? Trong lòng tôi cứ dấy lên một nỗi lòng chẳng nguôi ngoai.

Lần này tôi được nghỉ phép 3 ngày. 3 ngày ngắn ngủi tôi chẳng dám đi xa, suốt ngày chỉ ở nhà để quan tâm, thân thiết với con hơn. Tôi chỉ mong một lúc nào đó con sẽ nhận ra và gọi tôi là “Ba”. Tiếng ba luôn thường trực trong tâm trí tôi, trở thành nỗi khao khát cháy bỏng trong lòng tôi.

Nhưng không ngờ tôi càng muốn gần thì con bé lại càng đẩy tôi ra xa hơn. Vợ tôi có nói, nhưng nó vẫn lảng tránh và tỏ ra không thích. Dù cho đặt vào hoàn cảnh cuối cùng, khi nồi cơm sôi nhưng nó vẫn không chịu gọi tôi một tiếng ba để tôi chắt nước nồi cơm dùm.

Trong bữa cơm hôm đó, tôi chọn miếng trứng cá ngon nhất, to nhất gắp cho con bé. Nhưng nó lại ngỗ nghịch hất miếng trứng cá ra khiến cơm văng tung tóe. Vừa giận vừa thương, tôi vung tay đánh vào mông nó quát to: “Sao mày cứng đầu quá vậy”. Tưởng rằng với tính cách bướng bỉnh, nó sẽ lăn ra khóc rồi giãy, đạp đổ cả bữa cơm nhưng không, nó ngồi xuống, cúi gằm mặt rồi gắp cái trứng cá vào lại bài, lặng lẽ đứng dậy, đi ra ngoài và chèo thuyền qua phía nhà ngoại. Hết bữa cơm, tôi bảo vợ sang đón con về nhưng dù vợ tôi có nói thế nào, nó vẫn không chịu về.

Mai tôi phải đi. Trên chiến trường, ai biết được ngày về, không biết bao giờ tôi mới lại được gặp con, nhưng con lại chẳng thể hiểu cho nỗi lòng của người cha này.

Cả đêm đó, những suy nghĩ cuồn cuộn không ngừng quay trong đầu tôi. Tôi xoay sở thở dài mấy lần. Mỗi lần như thế, vợ tôi hiểu, cô ấy nói tôi hãy yên tâm công tác, sau này con sẽ hiểu ra thôi. Tôi đành im lặng để vợ an lòng.

Sáng hôm sau, bà con nội ngoại đến đông đúc. Con bé nhà tôi cũng đi theo ngoại về. Vì mải tiếp khách, tôi không để ý đến con. Khi xách ba lô lên vai, tôi quay lại nhìn con. Bé đứng ở góc nhà, không còn bướng bỉnh nữa mà vẻ mặt có chút buồn bã, suy nghĩ sâu xa. Tôi chỉ muốn chạy lại hôn lên má con, ôm con nhưng tôi sợ vết thương của mình lại khiến con sợ, nên tôi chỉ có thể lặng lẽ từ xa nói:

“Thôi, ba đi nghe con.”

Quay lưng bước đi, lòng tràn ngập thương nhớ, tôi không giấu được nước mắt. Nhưng lại càng xúc động hơn khi bé Thu đột ngột chạy đến ôm lấy tôi khóc nức nở “Baaaaaaaa”

Thật sự con bé gọi tôi là ba, nó đang gọi tôi là ba, tôi có nghe nhầm không chứ? Tiếng ba của nó rất rõ, xé tan cả không gian im lặng, tiếng ba đầy nghẹn ngào như bóp chặt trái tim tôi.

Tôi ôm con bé vào lòng. Có vẻ như bé Thu cảm nhận được điều gì đó, ôm chặt lấy tôi, vừa khóc vừa nói:

“Ba đừng đi nữa, ba ở lại với con”

Tôi yêu quý con bé nhiều lắm. Đến bây giờ là khoảnh khắc tôi cảm nhận rõ nhất tình cha con ấy nhưng tôi sắp phải chia xa. Nghẹn ngào không thể nói lời, tôi nói với con bé và cũng tự an ủi mình:

“Ba sẽ đi nhưng sớm thôi con ạ”

Nhưng con bé không chịu nghe, nó giữ chặt lấy tôi bằng cả hai chân. Nó sợ tôi đi xa, tôi cũng sợ, sợ phải rời xa con. Tôi mong muốn được ở bên con thêm vài ngày nữa để trao cho con những yêu thương từ lâu trong lòng nhưng vì nhiệm vụ chiến trường bức bách không cho phép tôi được làm thế

Rồi đến lúc phải ra đi, bà con hàng xóm an ủi con bé nhà tôi để tôi yên tâm lên đường. Ai nhìn thấy cảnh này đều không thể kìm được nước mắt.

Con bé có vẻ hiểu ra, không còn bướng bỉnh như trước nhưng vẫn ôm lấy tôi khóc than:

“Ba đi rồi ba về sớm mua cho con cây lược nhé ba”

Rồi từ từ tiễn đưa.

Sau này khi nghe kể lại, tôi mới biết rằng nó không nhận ra tôi vì vết sẹo dài, khác với bức ảnh mẹ nó đã cho nó xem. Sau đó bà ngoại giải thích và nó đã hiểu. Thì ra nó không quên tôi, không quên người cha này chỉ vì chút ngây thơ, vì vết sẹo chiến tranh khiến nó không nhận ra tôi thôi.

Lời chia tay đầy xúc động, chúng tôi từ biệt mọi người rồi trở về nhiệm vụ. Lúc đó tôi hối hận vô cùng vì đã trễ đánh con. Yêu thương nhưng lại vô tình đánh con. Tôi vấn vương, đau đớn suốt những năm tháng trên chiến trường.

Buổi chiều mưa rừng ấy, tôi quay trở về đơn vị. Hôm đó tôi vui lắm khi tìm được một khúc ngà voi. Tôi hí hửng rất thích đem lên khoe với đồng đội. Khúc ngà này để làm chiếc lược cho con bé, chắc chắn nó sẽ thích lắm. Sau đó, tôi dùng vỏ đạn hai mươi li của Mỹ làm chiếc cưa nhỏ.

Những ngày tháng sau đó, tôi tranh thủ mọi khoảnh khắc rảnh rỗi để nghỉ ngơi, từng cưa một chiếc răng lược tỉ mỉ. Không lâu sau, chiếc lược đã hoàn thiện. Tôi dùng niềm thương và nỗi nhớ khắc từng chữ nhỏ lên chiếc lược: “Yêu thương cho Thu con của ba”. Chiếc lược dài hơn một tấc, ngày nào tôi cũng mang ra ngắm nghía để xoa dịu nỗi nhớ con. Chiếc lược cho tôi thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, và chiến thắng để sớm được quay về, đoàn tụ với con.

Chiến tranh khiến con người xa cách, khiến những đứa trẻ không nhận ra cha mình nữa, và đến khi nhận ra thì lại không thể ở bên nhau. Không chỉ riêng con tôi, mà nhiều gia đình khác cũng trải qua hoàn cảnh như chúng tôi. Chỉ có hòa bình, thống nhất mới mang lại hạnh phúc, sự ấm no. Chúng tôi, những người lính cách mạng, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng để dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam sống trong sự thống nhất, độc lập, tự do, và an bình, để trẻ thơ được yêu thương, chăm sóc bên cha mẹ, gia đình.

Thay lời ông Sáu kể lại Chiếc lược ngà - Mẫu 5

Tôi và bạn tên Ba sống gần nhà, cùng vào kháng chiến. Đã nhiều năm xa nhà xa gia đình, tôi luôn khao khát gặp con nhỏ thân yêu của mình. Những ngày vợ lên thăm, đường biên giới nguy hiểm, không dám cho con đi cùng, nên tôi chỉ nhìn con qua bức ảnh. Ngày được về phép, tôi háo hức, mong được nhìn thấy con gái yêu của mình. Lòng tôi nôn nao trên đường về. Một cô bé tóc ngang vai, mặc quần đen, áo phông trắng chơi nơi bóng cây xoài trước sân nhà, đoán đó là con gái mình, không đợi thuyền cập bến, tôi xuống chân nhảy ra, chạy vội tới gặp con. Lòng nghẹn ngào tôi kêu:

- Thu ơi, con ạ!

Nhưng có lẽ mong chờ đó không được đáp lại. Khi tôi dang tay đón con, Thu mở mắt nhìn, tròn xoe với vẻ ngạc nhiên. Tôi vừa buồn vừa run trong tiếng nói:

- Thu ơi, Ba đây!

Vừa dứt lời, con bé lạ lẫm nhìn tôi chớp mắt liên hồi như muốn hỏi tôi là ai. Rồi con bé tái mặt, chạy vào trong nhà hét lớn:

- Mẹ ơi! Ba ơi!

Tôi bất ngờ sửng sốt, nhìn theo con với nỗi đau khôn nguôi, hy vọng gặp con lại nhưng bị đáp trả bằng sự thờ ơ của con. Lòng buồn vô tận, nhói trong tim khiến tôi gục xuống trong nước mắt.

Những ngày ở nhà, bé Thu không nhận tôi là ba của nó, suốt ngày tôi chỉ muốn được gần con để vỗ về yêu thương. Nhưng dù tôi cố gắng như thế nào, con bé vẫn xa lánh tôi. Nỗi khát khao của tôi là nghe bé Thu gọi mình là 'ba', nhưng nó chẳng bao giờ làm được điều đó. Khi vợ tôi chuẩn bị cơm xong, cô ấy bảo bé Thu ra gọi tôi vào ăn mà nó không chịu. Vợ tôi giận dỗi, đe dọa nó sẽ bị đánh nếu không nghe lời, nhưng nó lại trả lời trống không:

- Không ăn

Tôi nghe tiếng con gọi nhưng giả vờ không nghe thấy, mong nó gọi 'Ba vào ăn cơm'. Nhưng rồi lại thất vọng khi con bé ở bếp nói vọng ra:

Cơm đã chín rồi

Lúc đó, tôi vẫn không lại gần, có lẽ con bé bực mình nên quay lại nhìn mẹ, sau đó nói:

Con kêu mà người ta không chịu nghe

Tôi không biết nói gì, chỉ quay lại nhìn con và mỉm cười. Thật lòng, con gái của tôi bướng bỉnh quá nhưng tôi vẫn thương con vô cùng. Hôm đó, vợ tôi ra ngoài chuẩn bị đồ cho chuyến đi sắp tới của tôi, trước khi đi, cô ấy nhắc con rằng nếu cần giúp đỡ gì thì hãy gọi ba.

Nhưng con bé vẫn im lặng, ngồi khuỵu dưới bếp. Khi nghe nồi cơm sôi, nó mới nhìn lên từ dưới bếp ra ngoài. Tôi nghĩ rằng khi bị dồn vào thế bí, con bé nhất định sẽ gọi tôi là 'Ba', nhưng lại chỉ nói trống:

- Rót nước giùm con, cơm đã sôi rồi đấy.

Tôi cố ý nói:

- Con phải gọi là ba rót nước giùm con, nghe ba

Không hiểu là cố ý hay vô ý mà con bé không chịu nghe tôi, lại tiếp tục kêu:

- Cơm đã sôi rồi đấy. Nhanh lên đừng chần chừ nữa

Tôi nói:

- Con có sợ bị đánh không? Nếu cơm không nhão là mẹ sẽ la, mẹ sẽ đánh con đấy. Bây giờ con chỉ cần gọi 'Ba' một tiếng thôi, sao con lại khó khăn đến vậy.

Nghe tiếng nước sôi lên, con vừa nghỉ ngơi vừa lo lắng và sợ hãi, liên tục nhìn lên rồi lại nhìn xuống. Sau đó, nó tự mình loay hoay lấy cái vá để múc nước, trong khi miệng vẫn lầm bầm điều gì đó như trách móc tôi.

Trong bữa cơm chiều, tôi cho con bé một quả trứng cá to nhất trong đĩa để vào chén của nó. Tuy nhiên, ngay sau khi đưa vào, nó đã dùng đũa đẩy ra khỏi chén, cơm rơi ra hết khỏi đĩa. Vì quá giận dữ, tôi đã không kiềm chế được và đánh con vào mông. Lúc đó, tôi đã hoàn toàn mất bình tĩnh và đánh đúng là điều tôi hối hận suốt đời.

Tôi vừa đánh vừa la lên:

- Con ơi, sao con cứ cứng đầu thế

Tưởng rằng con bé sẽ khóc, sẽ giận, hoặc chạy đi đâu đó nhưng nó vẫn ngồi im đầu cúi xuống. Rồi không hiểu sao con bé lại gắp trứng cá vào chén và bước đi, ra đến bến xuồng nó nhảy xuống xuồng rồi chèo thuyền qua nhà ngoại. Chiều hôm đó, vợ tôi đã cố sang dỗ dành nhưng con bé vẫn không chịu về, ngày mai là ngày tôi phải lên đường, nghĩ đến con lòng tôi xót xa không dứt.

Sáng hôm sau, bà con nội ngoại tập trung đông đủ để tiễn tôi đi. Vì bận rộn với việc tiếp khách nên cũng chẳng có nhiều thời gian để quan tâm đến con bé. Vợ tôi đang chuẩn bị đồ đạc, xếp từng chiếc áo vào balo, trong khi đó con bé lúc này như bị bỏ rơi, lưng tựa vào gốc cửa, nhìn mọi người. Thoáng nhìn con, tôi thấy vẻ mặt hôm nay của con có vẻ khác, không bướng bỉnh hay cau mày như mọi hôm mà nó buồn rầu, sắp lắm, trong đôi mắt của con tôi nhìn thấy điều gì đó khó nói trong vẻ đăm chiêu, nghĩ ngợi sâu xa.

Giây phút chia tay, mang ba lô trên vai, khi đã bắt tay hết tất cả mọi người, tôi đưa mắt nhìn về con bé. Nó vẫn đứng trong góc nhà lặng lẽ, lòng tôi rất muốn ôm con, hôn con nhưng lại lo sợ rằng con sẽ bỏ chạy nên chỉ dám đứng nhìn con từ xa, lòng tôi đầy buồn bã. Rồi tôi khẽ nói:

- Thôi ba đi đây con nghe

Bất ngờ khi tôi vừa nói xong, con bé lắp bắp gọi:

- B...a..a...ba

Lúc đó, từ trong lòng tôi tràn ngập hạnh phúc, con bé chạy đến gần tôi, ôm chặt lấy cổ tôi và nức nở nói:

- Ba ơi, ba ở nhà với con nữa nhé, đừng đi nữa, ba ở nhà với con!

Tôi bế con lên, hôn lên trán con, trong tiếng khóc nức nở của con, tôi cảm nhận được tình cảm mãnh liệt mà con dành cho tôi. Sau khi nghe ngoại kể, tôi hiểu rằng bé Thu không nhận ra tôi vì vết thương dài trên má từ trận đấu với giặc của tôi.

- Ba đã ra đi nhưng sẽ sớm trở về với con, con nhé.

Bước vào chiến trường, những lúc rảnh rỗi tôi lại nghĩ về con. Một lần đi đánh trận, tôi nhặt được một chiếc ngà voi, rất vui vẻ. Từ chiếc ngà này, tôi làm một chiếc lược ngà, ghi dòng chữ: 'Thương nhớ Thu, con của ba'. Bao tâm tư của ba đã dồn vào chiếc lược này, nó là kỷ vật đặc biệt, khi nhìn vào nó, ba như thấy hình bóng con yêu.

Tôi từng ước ngày gặp con sẽ tặng chiếc lược này, nhưng số phận thật bất ngờ. Trong một trận đánh khốc liệt, tôi bị thương nặng. Biết mình không qua khỏi, tôi rút chiếc lược và giao cho đồng đội, cầu xin:

- Hãy...gửi...chiếc...lược...đến...tay...của...Thu, hãy...giúp...tôi.

Lòng tôi đau đớn vô cùng, ngã xuống chiến trường cũng là niềm kiêu hãnh. Trong những giây cuối cùng, tôi nhìn thấy Thu mỉm cười, nắm lấy tay tôi, tôi cũng mỉm cười hạnh phúc rồi chìm vào giấc ngủ vĩnh hằng.

Thay lời ông Sáu kể lại Chiếc lược ngà - Mẫu 6

Ngoài trời mưa tầm tã. Chiếc lều anh em tôi dựng từ hôm trước vẫn còn dột lỗ ở một góc. Sau khi chiến thắng trận đánh ác liệt của địch, anh em tôi quây quần bên nhau nghỉ ngơi, hát hò và kể chuyện gia đình. Đó là những khoảnh khắc quý giá trong cuộc sống của những người lính. Như mọi khi, tôi rút chiếc lược làm bằng ngà từ trong áo ra để hoàn thành những công đoạn cuối cùng. Cầm chiếc lược trên tay, nỗi nhớ về bé Thu trong tôi dâng trào, đau đớn gan ruột. Tôi kể cho đồng đội nghe về cuộc gặp gỡ của hai cha con bữa trước, mong rằng sẽ làm dịu đi phần nào…

Thấm thoát đã tám năm kể từ khi tôi rời quê hương, gia đình, bạn bè để tham gia cuộc chiến của dân tộc. Dù má nhỏ đã vượt rừng tới thăm tôi vài lần, dù tấm ảnh của má con được nâng niu và ngắm nhìn mỗi ngày, nhưng cảm giác được gặp con, ôm con trong lòng vẫn khiến tôi khát khao…

Trước mắt, hình ảnh hàng dừa nghiêng xuống dòng kênh trước nhà bỗng hiện ra. Bất ngờ tôi nhận ra một cô bé khoảng tám tuổi, tóc ngắn, mặc chiếc áo bông đang chơi dưới gốc cây trước nhà. Linh cảm của người cha khiến tôi nhận ra đó chính là bé Thu – đứa con gái bé bỏng mà tôi mong mỏi gặp từ lâu.

Xuồng cập bến, tôi nhảy lên bờ mà không để ý xuống xuồng mọi người bị tôi làm chao đảo.

- Thu ơi! Con ơi!

Tôi hét lớn và lao về phía con. Trong lúc trở về đầy bất ngờ này, tôi nghĩ con bé sẽ chạy về ngay và ôm chầm lấy tôi, sẽ gọi to lên cho má trong nhà biết. Tôi ra đón con với tay mở rộng sẵn sàng.

Ba đây con ơi!

Nhưng lạ thay, con bé ngơ ngác, tròn mắt ngạc nhiên như cố vắt óc ra xem tôi là ai. Tôi vẫn hi vọng và tiến đến gần nó với đôi tay mở rộng. Nhưng đáng lạ, con bé không chạy lại như tôi tưởng, nét mặt nó trở nên sợ hãi. Nó hét to lên: 'Mẹ ơi! Mẹ ơi!' rồi vội vàng chạy vào nhà.

Tôi đứng im, hai tay buông xuống. Tôi nhìn theo con đang lao vào nhà với tốc độ, không dám quay đầu lại. Quay sang anh Ba, chúng tôi cùng lắc đầu. Anh Ba an ủi:

- Thôi, yên tâm đi, sớm muộn gì nó cũng sẽ nhận ra cậu. Bố nó chứ ai mà nó lại không chịu nhận.

Tôi cười nhưng nước mắt muốn trào ra. Tại sao lại như thế này? Ngay lúc đó, má nhỏ hớn hở chạy ra, cất ba lô trên vai tôi rồi lao đi báo tin cho mọi người.

Giữa những lời thăm hỏi rộn ràng của họ hàng làng xóm, dù cảm thấy vui vẻ nhưng tôi vẫn thấy trong lòng cô đơn. Thỉnh thoảng tôi lén nhìn con nhưng nó vẫn né tránh ánh mắt của tôi. Trái tim tôi như đang rỉ máu.

Vì khoảng cách xa xôi, tôi chỉ có ba ngày ở nhà. Tôi dành toàn bộ thời gian cho gia đình, đặc biệt là cho con. Đến bữa ăn cơm, má nhỏ gọi tôi vào ăn. Nó lẩm bẩm, lắc đầu từ chối không chịu gọi. Má nó nổi giận, quơ đũa bếp đe dọa đánh, nó mới tức giận gọi vang từ cửa bếp:

- Vô ăn cơm đi!

Câu đầu tiên con bé nói với tôi khi tôi trở về chỉ là một câu trống trơn. Tôi im lặng nhưng cũng hiểu rằng khoảng cách tám năm đã làm tình cha con chúng ta xa cách. Tôi vẫn hy vọng, vẫn đợi chờ tiếng 'ba' của con bé.

Một ngày khác, khi má đến cơm, con bé đảo qua đảo lại đôi đũa nhưng khi đến lúc chắt nước, nó không làm được và cầu viện đến tôi:

- Cơm sôi rồi, chắt nước giúp con cái!

Lại một lần nữa, tôi im lặng không đáp lại, tiếp tục uống trà với anh Ba. Tôi cố ý giả vờ không nghe để mong con bé sẽ gọi tiếng 'ba' một lần. Nhưng không, con bé vẫn không chịu gọi tôi là ba. Nó loay hoay rồi lấy cái vá múc từng vá nước. Thật là đáng yêu!

Đến bữa ăn, tôi gắp miếng trứng cá to cho nó vào bát:

- Ăn đi con ơi!

Con không đáp, đột nhiên hất miếng trứng ra, cơm rơi tung tóe khắp mâm. Tôi tức quá, không kiềm chế được, tay phát liền hai cái vào mông nó và mắng:

- Sao con cứng đầu thế này hả?

Đánh con xong, lòng tôi đau như xé ra. Lạ là nó không khóc, không đạp đổ mâm cơm hay nôn thức ăn ra ngoài như các đứa trẻ khác. Nó cúi gằm mặt, lặng lẽ gắp miếng trứng cá vào chén, sau đó lặng lẽ ra thuyền sang nhà ngoại. Lúc này, tôi hối hận hơn là giận con. Con bé không có lỗi, tất cả là do chiến tranh đã chia cắt ba con chúng ta. Đêm đã khuya, tôi nằm thao thức không thể ngủ được, không biết con bé đang như thế nào? Chắc nó giận và ghét tôi lắm. Lại thêm nước mắt rơi không ngừng.

Sáng hôm sau tôi phải lên đường. Bận rộn chào tạm biệt mọi người, tôi không còn thời gian nghĩ đến nó. Trước khi ra đi, tôi quay lại nhìn con. Nó đứng ở góc nhà, nhìn tôi mà không còn hờn gì nữa. Tôi muốn chạy đến ôm con nhưng sợ con sẽ bỏ chạy, nên tôi chỉ đứng từ xa, nhìn thẳng vào mắt nó và nói khe khẽ:

- Ba ơi, đứng lại nghe con nào!

Tôi quay mặt đi vội vàng. Nhưng khi mọi người đều nghĩ là nó sẽ im lặng thì:

- Ba..a…a…ba!

Trời ơi! Tai tôi có nghe nhầm không vậy? Bé Thu đang gọi tôi ư? Tôi vẫn còn bàng hoàng khi con bé chạy đến ôm chặt lấy tôi và nức nở nói:

- Ba ơi, đừng đi nữa! Ba ở nhà với con nhé!

Tôi gật đầu im lặng, không thốt nên lời. Bởi vì trách nhiệm, tôi lau đi nước mắt, sẵn sàng ra chiến trường. Lần này, trong hành trang của mình, tôi mang theo lời hứa với cô con gái bé nhỏ. Chắc chắn rồi, tôi sẽ làm một cây lược thật đẹp để gửi về cho con... Thượng đế cũng như thường lạc quan. Một ngày, trong rừng tìm chất liệu làm lược, tôi tình cờ nhặt được một mẩu ngà nhỏ xíu. Tôi vui sướng vô cùng vì mẩu ngà này sẽ giúp tôi làm chiếc lược xinh xắn cho con bé. Chắc là con bé đang mong chờ lắm. Việc làm lược không dễ dàng như tôi tưởng. Ngày ngày, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, tôi ngồi tỉ mẩn mài từng chiếc răng lược. Dần dần... và rồi đến ngày cây lược hoàn thành. Như một kỉ vật của tình cha con, tôi đã khắc lên sống lưng lược những chữ nhỏ: “Yêu thương Thu con của ba”. Hi vọng rằng con bé sẽ thích và vui khi nhận được món quà này.

Thu à! Chắc chắn ba sẽ trở lại, đưa cây lược trực tiếp vào tay con. Khi đất nước thống nhất, ba sẽ về ở bên con, bù đắp những khoảng trống tình cảm trong suốt bao năm xa cách. Chờ đợi ba nhé!

Thay vì kể lại, ông Sáu mô tả về Chiếc lược ngà - Mẫu 7

Tôi là Sáu - một người lính xung phong trên chiến trường Nam Bộ. Ngày tôi xa nhà đi ra trận, con gái tôi - bé Thu mới chỉ một tuổi. Với tôi, bé Thu là niềm hạnh phúc nhất cuộc đời, cũng là nguồn động lực để tôi chiến đấu và mong sớm về gặp con. Bảy năm trôi qua, khi tôi trở về quê nhà. Dù có tấm ảnh của con, tôi vẫn luôn nâng niu và ngắm nhìn mỗi ngày, nhưng mong muốn được gặp con, được ôm con vào lòng vẫn cháy bỏng trong tôi.

Nhớ ngày tôi ra đi, bé Thu vẫn ôm trên tay mẹ. Gương mặt bé thật đáng yêu. Mỗi khi vợ đến thăm, tôi luôn nhắc nhở rằng hãy dẫn con theo nhưng trong lòng biết rằng điều đó không thể. Thời buổi hiểm nguy, dẫn theo con như vậy là đưa nó vào nguy hiểm. Tôi biết điều đó rõ ràng. Chỉ có nỗi nhớ và sự mong chờ được gặp lại con luôn dâng trào trong lòng.

Vì vậy, chuyến về quê này là một niềm hạnh phúc không thể tả. Sau bảy năm chờ đợi, ngày hôm đó đã đến. Lòng tôi nao nao, bồn chồn. Nghĩ đến cảnh được đoàn tụ với gia đình, ôm con, nghe tiếng con gọi ba thân mật,... tôi vui đến mức không thể ngủ được.

Chiếc xuồng tiếp cận bờ. Hình ảnh ngôi nhà và hàng dừa xanh rõ nét hơn. Từ xa, tôi nhận ra con gái tóc ngắn, mặc quần bông áo đỏ, đứng đợi. Tôi vội chạy khi xuồng chưa hoàn toàn đậu và gọi lớn:

“Thu, con”.

Ngay khi gọi, như những gì tôi đã mường tượng suốt một đêm qua, tôi nghĩ rằng bé Thu sẽ chạy đến ôm tôi vui mừng vì ba về. Nhưng không, ánh mắt con bé ngơ ngác. Nó giật mình, rồi hoảng sợ khi nhận ra tôi. Một cảm giác hụt hẫng tràn về. Vừa xúc động, vừa thất vọng, vết thương trên má tôi đỏ lên, hằn rõ hơn. Có lẽ vì thế bé Thu sợ hãi, bỏ chạy tìm mẹ.

Trái tim tôi nhói đau. Chưa từng nghĩ đến cảnh này, chưa từng nghĩ con gái sẽ sợ hãi, tránh né người cha đã bảy năm không gặp như thế này... Đứa con gái mà tôi mong ngóng hàng ngày lại không chấp nhận người cha này. Lòng tôi như bị dao cắt, không nguôi ngoai.

Mẹ của bé Thu thông báo với gia đình và hàng xóm. Mọi người đến hỏi thăm, quan tâm làm tôi cảm động, phấn khởi. Nhưng trong lòng vẫn còn một cảm giác trống trải. Thỉnh thoảng, tôi nhìn bé Thu, nhưng lại nhận được sự tránh né từ con bé. Ồ thì, có lẽ việc này không đáng ngạc nhiên. Khi tôi đi chiến đấu, bé Thu chỉ mới chưa đầy 1 tuổi. Nó quá nhỏ để nhớ hình ảnh của người cha này và bây giờ nó cũng chưa đủ lớn để nhận biết.

Mặc dù chỉ được về nghỉ ba ngày, nhưng thời gian này rất ngắn. Tôi không dám và cũng không muốn đi xa. Cả ngày ở nhà gần gũi với bé. Khi ngày phải đi lại gần kề, tôi mong ngóng tiếng con gọi “ba”, mong bé thân mật, yêu thương tôi. Sự khao khát gần bên con càng nhiều hơn.

Nhưng bé Thu lại có tính cách riêng của nó. Nó quyết không gọi tôi dù trong hoàn cảnh cần giúp đỡ. Lúc nào cần nói, nó cũng không gọi ba, chỉ im lặng. Trong bữa cơm, tôi cẩn thận cho bé một miếng trứng cá vào bát. Nó không nói gì, nhưng lại đột nhiên đẩy miếng trứng ra, cơm văng tung tóe khắp mâm. Tôi giận dữ, không kìm chế được, vừa giận vừa thương, tôi phạt nó hai cái vào mông, mắng: “Sao con cứng đầu quá vậy hả?”

Sau khi đánh con, lòng tôi đau như thể có ai xát muối vào vết thương. Lạ thay, bé Thu không khóc, không nói gì, nó chỉ cúi gằm mặt, lặng lẽ gom miếng trứng cá vào chén rồi ra thuyền, chèo sang nhà ngoại. Lúc đó, tôi hối tiếc lắm. Con không có lỗi, nó còn quá nhỏ để hiểu mọi thứ. Tất cả là do chiến tranh tàn khốc đã ngăn cách ba con chúng tôi.

Ba ngày nhanh chóng trôi qua, mai là ngày tôi phải quay trở lại chiến trường. Nơi đó khốc liệt, ra đi không dám nghĩ đến ngày quay về. Tôi chỉ mong nghe con gọi ba một lần thật ấm áp nhưng sao lại khó đến vậy. Cả đêm không ngủ, tôi chỉ nghĩ về gia đình, về bé Thu… Nước mắt không ngừng chảy. Sáng ngày đi, bà con nội ngoại, hàng xóm đến đông đúc. Mọi người chia tay buồn rầu, dặn dò tôi giữ sức khỏe chờ ngày đất nước thống nhất để quay trở về. Dù có nhiều khách, tôi vẫn không có thời gian để quan tâm đến bé. Khi đeo ba lô lên vai, tôi nhìn bé Thu. Nỗi đau trong lòng không còn mạnh mẽ như ban đầu vì con không nhận ra mình nữa. Thay vào đó, lòng tôi đầy sự trống trải, đau buồn và tiếc nuối về bé nhiều hơn. Bé Thu trông không còn bướng bỉnh nữa, trước mặt tôi, con bé nhìn có chút buồn hơn những ngày trước. Trước khi chia xa, tôi chỉ muốn ôm lấy con một lần, nhưng vì sợ vết thương trên má khiến con hoảng sợ, tôi đành ngậm ngùi chào: “Thôi, ba đi nhé con”.

Lúc chia ly, lòng tôi nghẹn ngào, không thể kìm nén nổi nước mắt. Nhưng điều khiến tôi cảm động nhất là khi bé Thu gọi lên một tiếng dài: “Ba”. Tôi như không thể tin vào điều này. Đó là tiếng gọi của bé Thu đấy sao? Tiếng gọi mà tôi đã mong chờ suốt bao lâu nay. Tôi quay đầu lại, con bé đã chạy đến ôm tôi chặt. Nó không ngừng hôn lên má tôi, lên vết thương dài, miệng cứ liên tục: “Ba, ba ở lại với con. Con không cho ba đi nữa.”

Giờ đây, tôi mới thực sự cảm nhận được tình cảm cha con. Thế mà lại sắp phải xa con. Nước mắt không ngừng chảy, tôi không thể nói nên lời, chỉ dặn dò con bé và cố tự an ủi mình: “Ba đi rồi ba sẽ trở về ngay đây con ơi!”

Nhưng bé Thu không chịu nghe, hai tay nó ôm chặt lấy cổ tôi. Đôi chân nhỏ bé quấn quýt hai bên hông của tôi. Bé Thu nức nở khóc và tôi cũng thấy khóe mắt mình đầy nước. Đến khi má nó và bà ngoại lại gần dỗ dành, con bé mới chịu buông tôi ra. Nước mắt lưng tròng, nó nức nở: “Ba đi rồi về mua cho con cây lược nghe ba!”

Phút chia tay ngắn ngủi nhưng đầy nghẹn ngào, chúng tôi từ biệt mọi người để quay trở lại chiến trường. Mỗi đêm dưới rừng, nhớ con là tôi lại thấy hối tiếc vô cùng vì đã đánh con. Tôi dằn vặt, đau đớn suốt những năm tháng chiến đấu. Lời hứa mang về chiếc lược cho con vẫn còn rất sâu trong lòng tôi. Không một giây nào tôi quên nhiệm vụ của mình, nhiệm vụ mà đứa con gái nhỏ của tôi đã giao phó. Tìm cho con món quà này đã trở thành bổn phận của người cha, là kỷ niệm thiêng liêng của tình cha con.

Tôi muốn tự tay làm tặng con gái nhỏ của mình một chiếc lược thật đẹp. Hằng ngày tôi tỉ mỉ mài chiếc ngà voi và dùng vỏ đạn làm lược. Tôi còn khắc lên đó những dòng chữ yêu thương để tặng con. Chiếc lược trở thành nguồn động lực, là niềm tin vững chắc và ước mơ về ngày chiến tranh kết thúc, khi tôi có thể trở về và trao tận tay con bé món quà này.

Tuy chiến tranh khốc liệt, sự phân cách giữa sống và chết thật mong manh. Trong trận đánh lớn với Mỹ – Ngụy, tôi bị thương nặng. Biết mình sắp hy sinh, tôi không hối tiếc vì đã cống hiến hết mình cho độc lập tổ quốc. Trước khi ra đi, hình ảnh lá cờ độc lập luôn hiện trong tâm trí tôi. Dưới lá cờ ấy, là bé Thu - con gái bé bỏng đang đợi tôi về. Tôi đã kịp gửi cho anh Ba – đồng đội của mình cây lược ngà với hi vọng anh sẽ trao tặng cho con bé. Trước khi tôi ngã, vẫn nghe thấy lời hứa của anh Ba bên tai: “Tôi sẽ mang về và trao tặng cho cháu.”

Trong những giây cuối cùng, tôi thấy bé Thu nắm chặt tay tôi, và tôi cũng mỉm cười hạnh phúc chìm vào giấc ngủ dài.

Tôi đóng vai ông Sáu kể lại chuyện về việc làm lược trong chiến khu.

Tôi là Sáu - một người lính kháng chiến chống Mỹ. Sau khi trở về từ chiến trường, con gái tôi đã không nhận ra tôi. Khi tôi trở về đơn vị, con bé mới nhận ra tôi là cha và yêu cầu tôi mang quà về cho nó.

Kể từ khi trở về đơn vị, trong tâm tư tôi luôn ân hận về việc đã đánh con bé. Tôi yêu thương con bé nhưng lại đánh nó, điều này khiến tôi thấy rất xấu hổ. Để bù đắp lỗi lầm, tôi luôn nghĩ đến việc làm một vật gì đó đẹp để tặng con. Một ngày, trên đường đi làm nhiệm vụ, tôi tình cờ nhặt được một mảnh ngà lớn. Tôi nảy ra ý định làm một cây lược ngà thật đẹp cho con. Hằng ngày, tôi tỉ mẩn cưa từng chiếc răng lược và cẩn thận khắc lên đó những dòng chữ yêu thương dành cho con. Mỗi khi làm xong một chiếc răng, tôi lại mài tóc của mình để cây lược sáng bóng hơn. Tôi tin chắc bé Thu sẽ rất thích cây lược này vì ba nó đã dồn hết tâm trí vào nó. Tôi tưởng tượng một ngày sẽ cầm cây lược này chải lên mái tóc đen mượt của con. Nghĩ đến đây, tôi lại mỉm cười hạnh phúc và mong rằng, khi chiến tranh kết thúc, tôi sẽ được trở về và trao tận tay cho con món quà nhỏ ấy. Nhưng chưa kịp trao tận tay cho con, tôi không thể trở về nữa. Tôi nhờ anh Ba trao giúp cây lược cho con bé.

Tôi yêu thương và quý mến con mình. Hy vọng chiếc lược này sẽ luôn ở bên con, đem đến sức mạnh và bảo vệ cho bé Thu suốt cuộc đời.

Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc và tăng trải nghiệm khách hàng. Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng liên hệ tổng đài chăm sóc: 1900 2083 hoặc email: [email protected]